Báo cáo từ tháng 8 cho biết xuất khẩu dầu của Iran đã đạt mức cao kỷ lục, phần lớn nhờ vào việc chính quyền Biden chọn cách nhìn khác khi Tehran tăng cường sản xuất bề ngoài nhằm nỗ lực giữ cho thị trường được cung cấp tốt và giá dầu ở mức thấp. Phản ứng về giá trước sự leo thang căng thẳng ở Trung Đông cho đến nay vẫn còn khiêm tốn; tuy nhiên, cuộc chiến Israel-Gaza có thể sẽ gây ra sự thay đổi đáng kể trong chính sách của Mỹ đối với Iran do nước này công khai ủng hộ và ủng hộ Hamas.
Các nhà phân tích hàng hóa tại Standard Chartered đã lưu ý rằng quyết định vào cuối chính quyền Obama đầu tiên liên kết chính sách thương mại với việc nhập khẩu dầu Iran của các nước tiêu thụ chính đã cắt giảm sản lượng của Iran hơn 1 triệu thùng mỗi ngày (mb/d).
Các hạn chế sau đó đã được nới lỏng sau khi Kế hoạch hành động toàn diện chung (JCPOA) được ký kết vào năm 2015.
Tuy nhiên, các hạn chế lại được thắt chặt một lần nữa sau khi Mỹ rút khỏi JCPOA dưới thời chính quyền Trump, với sản lượng giảm xuống dưới 2 triệu thùng/ngày vào năm 2020 khi được miễn trừ. tới các nước tiêu thụ đã bị thu hồi. Sản lượng và xuất khẩu dầu của Iran đã tăng mạnh dưới thời chính quyền Biden, với sản lượng đạt 3 triệu thùng/ngày, bao gồm 500.000 thùng/ngày trong năm hiện tại, trong khi xuất khẩu chỉ ở mức dưới 2 triệu thùng/ngày.
Trước đó, có thông tin cho rằng Mỹ và Iran đang đạt được tiến bộ sau khi nối lại đàm phán về thỏa thuận hạt nhân, một động thái có thể nới lỏng các lệnh trừng phạt đối với hoạt động xuất khẩu dầu của Iran. Báo Haaretz của Israel đưa tin các cuộc đàm phán đang tiến triển nhanh hơn dự kiến và có khả năng đạt được thỏa thuận trong vài tuần nữa.
Các điều khoản trong thỏa thuận có thể bao gồm việc Iran ngừng các hoạt động làm giàu uranium ở mức 60% trở lên để đổi lấy việc được phép xuất khẩu tới 1 triệu thùng dầu/ngày. Một thỏa thuận hạt nhân thành công có thể thay đổi thị trường dầu mỏ, với việc cựu Bộ trưởng dầu mỏ Iran Bijan Namdar Zanganeh nói rằng giấc mơ lớn nhất của ông luôn là tăng sản lượng dầu của Iran lên tới 6 triệu thùng mỗi ngày.
Nhưng những cáo buộc gần đây cho rằng Iran giúp Hamas lên kế hoạch tấn công Israel rất có thể sẽ làm căng thẳng nghiêm trọng mối quan hệ giữa Washington và Tehran. StanChart đã phát biểu rằng Hoa Kỳ có ba lựa chọn chính sách rộng rãi liên quan đến sản lượng dầu của Iran: (1) nguyên trạng, với sản lượng ở mức 3 triệu thùng/ngày hoặc cao hơn, (2) mức ổn định trước năm 2023 là gần 2,5 triệu thùng/ngày, hoặc (3) xuất khẩu gần bằng 0 với sản lượng dưới 2 triệu thùng/ngày đạt được vào cuối chính quyền Trump.
Các nhà phân tích lưu ý rằng phương án số 1 là chính sách phù hợp nhất với Mỹ về cả ảnh hưởng thị trường và địa chính trị chỉ một tuần trước. Tuy nhiên, những diễn biến mới nhất ở Trung Đông đã khiến phương án số 2 và số 3 trở thành mục tiêu chính sách tiềm năng.
Giá khí đốt châu Âu tăng vọt sau khi Israel đóng cửa mỏ khí đốt
Trong khi các thị trường dầu mỏ dường như không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng ở Israel, thì việc Chevron Inc. (NYSE:CVX) đóng cửa mỏ khí đốt Tamar của Israel để đề phòng đã khiến giá khí đốt của châu Âu tăng vọt mặc dù lục địa này đang tràn ngập hàng hóa này. StanChart ước tính rằng việc ngừng hoạt động đã cắt giảm sản lượng nội địa của Israel khoảng 28 triệu mét khối mỗi ngày (mcm/d) và khiến giá khí đốt tự nhiên của châu Âu tăng cao hơn 15%.
StanChart lưu ý rằng trong khi xuất khẩu từ Israel sang Ai Cập thường đến từ mỏ Leviathan, việc ngừng hoạt động ở Tamar có thể gây ra tác động dây chuyền, với những dấu hiệu ban đầu cho thấy xuất khẩu đã giảm khoảng 5 mcm/ngày so với mức thông thường là 23 mcm/ngày.
Về mặt lý thuyết, việc giảm xuất khẩu sang Ai Cập có thể có tác động tới thị trường châu Âu vì nó làm giảm khả năng Ai Cập nạp hàng hóa LNG. StanChart nhận thấy rằng những lo ngại đó có phần bị thổi phồng quá mức vì số lượng hàng hóa gặp rủi ro là rất nhỏ, nếu không muốn nói là bằng không. Quả thực, nhu cầu nội địa của Ai Cập mạnh đến mức không có hàng hóa nào được xuất khẩu trong tháng 9.
Để phòng vệ, thị trường khí đốt châu Âu đang phải đối mặt với những rủi ro nguồn cung khác ngoài Tamar, bao gồm những lo ngại mới về hành động đình công tại một số cơ sở LNG của Úc, cũng như sự cố ngừng hoạt động trong đường ống kết nối hai chiều giữa Estonia và Phần Lan. Thiệt hại đối với đường ống Balticconnector và cáp viễn thông liền kề đang được cuộc điều tra của Phần Lan coi là hành vi phá hoại tiềm tàng. Mặc dù bản thân đường ống này có tầm quan trọng tương đối nhỏ trong hệ thống cung ứng của EU, nhưng mối lo ngại của thị trường có thể sẽ tăng cao về khả năng phá hoại các đường ống quan trọng khác.
Tồn kho khí đốt của châu Âu tiếp tục tăng ngay cả khi lo ngại về nguy cơ mất nguồn cung đang lấn át. Theo dữ liệu của Cơ sở hạ tầng khí đốt Châu Âu (GIE), tồn kho đạt mức cao mới mọi thời đại ở mức 112,92 tỷ mét khối (bcm) vào ngày 8 tháng 10, tương đương 97% công suất lưu trữ. Mức tăng so với cùng kỳ ở mức 9,41 bcm và mức tăng trên mức trung bình 5 năm là 11,75 bcm. Theo StanChart, có vẻ như việc bắt đầu giảm lượng tồn kho đáng kể sẽ bị trì hoãn và EU có thể sẽ kết thúc mùa thu hồi với lượng tồn kho rất cao và có khả năng trên 70 bcm với những dự báo ban đầu cho thấy mùa đông ở châu Âu sẽ cực kỳ ấm áp.